🐣Đ𝐨̂̀𝐧𝐠 𝐃𝐚𝐨 - 𝐂𝐚̂𝐮 𝐡𝐚́𝐭 𝐭𝐫𝐞̉ 𝐜𝐨𝐧🐣
Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng
🫶Giới thiệu về đồng dao
🪷Đồng dao, đồng diêu : câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huỳnh Tịnh Paulus Của, trong đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sài Gòn.
🪷Ba mươi sáu năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến đức khởi thảo Việt Nam Tự điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao là câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào.
🪷Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả.
🪷Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi.
🫶Đặc điểm Ngôn ngữ
Bài Đồng dao thường có tính chất nhẹ nhàng, tình cảm, dễ in vào tâm trí trẻ thông qua hình ảnh sống động, sự vật, hình thể bằng con đường tình cảm, hát. Đồng dao là sự nối tiếp chức năng của tiếng hát mẹ ru. Đồng dao sử dụng ca từ đơn giản ngắn gọn chỉ hai từ, ba từ, bốn hoặc năm chữ tưởng chừng không có ý nghĩa kết hợp với vần điệu tiết tấu nhịp nhàng dễ nhớ khiến trẻ nhỏ yêu thích. Về nội dung và nghệ thuật diễn xướng ta thấy có nhiều hoạt động như: hoạt động hát, hoạt động vui chơi, hoạt động trò chơi.
Thể thơ phổ biến thường sử dụng trong hát Đồng dao là thể thơ bốn chữ, bốn chữ biến thể và thể thơ lục bát, thơ hai chữ, ba chữ, thể thơ hỗn hợp. Thành phần cấu tạo một bài Đồng dao bao gồm âm điệu và thanh điệu, lối bắt vần chân, vần lưng tạo cho lời ca bài Đồng dao gần với chất ca xướng. Cùng với sự xuất hiện phổ biến của vần bằng (thanh không - thanh huyền), vần trắc (gồm 4 thanh còn lại) ở giữa dòng và cuối dòng tạo sự luân phiên thanh bằng, trắc làm nên tính trầm bổng cho giai điệu có chứa cả phần nhạc và phần thơ.
Bài “Thả đỉa ba ba” xây dựng ở thể thơ bốn chữ, sử dụng lối bắt vần chân luân phiên thanh bằng trắc tương đối nhịp nhàng:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông…
🎋Ngoài ra, trong một số bài Đồng dao khác sử dụng thể thơ hỗn hợp, thể thơ lục bát, có khi lời ca là sự kết hợp của thể thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ nhưng thực chất lại là sự biến thể của thể bốn chữ do yêu cầu mở rộng nội dung câu thơ. Thể thơ này hoàn toàn phù hợp với nhận thức của trẻ
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè…
🎋 Lời ca của Đồng dao có vị trí quan trọng trong việc thực hiện trò chơi âm nhạc bởi giúp trẻ dễ nhớ, dễ phát âm, nội dung lời ca có mối liên hệ mật thiết với môi trường xung quanh, sự vật hiện tượng, nội dung trò chơi. Đặc biệt phần lời ca hỗ trợ cho động tác vận động của trò chơi linh hoạt phong phú và hấp dẫn
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật…
🎋Kho tàng đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam còn rất nhiều bài hay và còn giúp trẻ gắn kết với nhau thông qua các trò chơi tập thể. Tiếc rằng, với cuộc sống hiện đại, nó dần dần mai một. Chúng ta hiếm gặp hình ảnh các em tụm năm tụm ba chơi các trò “Dung dăng dung dẻ”, “Rồng rắn lên mây”, “Bịt mắt bắt dê”… vào những đêm trăng sáng. Đã đến lúc chúng ta nên duy trì sức sống của đồng dao trong không gian văn hóa đương đại. Đọc lại đồng dao cho trẻ nghe, chơi cùng với trẻ, giúp kết nối giữa cha mẹ, con cái và tạm xa những màn hình thiết bị điện tử.
Nguồn http://www.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=4058&sitepageid=656